Ưu điểm: Giúp hệ thống biết chính xác công việc cần làm và thực hiện lệnh ngay lập tức.
Nhược điểm: Người sử dụng phải biết câu lệnh và phải gõ trực tiếp trên máy tính.
Ví dụ 1: Gõ lệnh DIR D: để xem nội dung ổ đĩa D
Hình 2. Gõ lệnh DIR D: để xem nội dung ổ đĩa D
b. Sử dụng bảng chọn
Khi sử dụng bảng chọn hệ thống sẽ chỉ ra những việc có thể thực hiện hoặc những giá trị có thể đưa vào, người sử dụng chỉ cần chọn công việc hay tham số thích hợp.
Bảng chọn có thể là dạng văn bản (hình 3), dạng biểu tượng (hình 4) hoặc kết hợp cả văn bản với biểu tượng.
Khi sử dụng cửa sổ hộp thoại hoặc bảng chọn, người dùng không cần biết quy cách câu lệnh cụ thể (mặc dù luôn có những câu lệnh tương ứng) và cũng không cần biết trước là hệ thống có những khả năng chi tiết cụ thể nào.
Hình 3. Cửa sổ hộp thoại dạng văn bản
Hình 4. Cửa sổ chứa các biểu tượng
1.3. Ra khỏi hệ thống
Một số hệ điều hành hiện nay có ba chế độ chính để ra khỏi hệ thống:
Tắt máy (Shut Down hoặc Turn off)
Tạm ngừng (Stand By)
Ngủ đông (Hibernate)
Trong đó:
Shut Down: Ta thường chọn chế độ này trong trường hợp kết thúc phiên làm việc. Khi đó hệ điều hành sẽ dọn dẹp hệ thống và tắt nguồn. Mọi thay đổi trong thiết đặt hệ thống được lưu vào đĩa cứng trước khi nguồn được tắt.
Stand By: Ta chọn chế độ này trong trường hợp cần tạm nghỉ một thời gian ngắn, hệ thống sẽ lưu các trạng thái cần thiết, tắt các thiết bị tốn năng lượng. Khi cần trở lại ta chỉ cần di chuyển chuột hoặc nhấn một phím bất kì trên bàn phím.
Hibernate: Khi chọn chế độ này máy sẽ lưu toàn bộ tạng thái đang hoạt động vào đĩa cứng. Khi khởi động lại, máy tính nhanh chóng thiết lập lại toàn bộ trạng thái đang làm việc trước đó.